Page 46 - chuyen doi lon - ebook.dangtrongdai.com
P. 46
viên lành nghề để bảo hành chúng. một khách thăm quan một nhà máy
ở Anh vào những năm 1870 kể lại rằng bên trong “trông rất lộn xộn,”
với “hàng đống các ròng rọc và dây đai chạy theo đủ mọi hướng; hiển
nhiên, dưới con mắt không chuyên, nó là một mớ hỗn độn vô vọng.”
ngoài chi phí cao để chế tạo, dễ hỏng hóc, và hay gây tai nạn, các máy
truyền lực còn kém hiệu quả. Ròng rọc và dây curoa thường tiêu hao
tới một phần ba hoặc nhiều hơn nữa năng lượng do bánh xe nước hoặc
động cơ sản sinh ra.
Đó là thế giới mà máy phát điện đã thâm nhập với tư cách là nguồn
tạo năng lượng công nghiệp lớn thứ ba. nó không đòi hỏi máy truyền
lực cồng kềnh. Bởi mỗi máy có thể nhận năng lượng một cách riêng biệt,
nên các chủ nhà máy có thêm độ linh hoạt để thiết kế quy trình lao động
– và mở rộng các hoạt động của họ. họ không còn bị ràng buộc bởi một
đống dây curoa và ròng rọc rất khó thay đổi. Điện cũng sạch hơn và dễ
điều khiển hơn là nước hay lực hơi nước.
Tuy nhiên, chấp nhận năng lượng điện lại là một điều cấm kỵ. Các nhà
sản xuất không những phải hy sinh hầu hết các khoản đầu tư trước đây
vào các hệ thống sức nước và hơi nước cùng các máy truyền lực đi kèm,
mà còn phải lắp đặt máy phát điện, đi đường dây khắp xí nghiệp, và điều
làm nản lòng hơn cả là phải thay đổi máy móc để chúng có thể chạy bằng
các động cơ điện. việc này tốn kém, và bởi năng lượng điện còn mới mẻ
và chưa được kiểm nghiệm nên cũng mạo hiểm. Lúc đầu, sự chuyển đổi đã
xảy ra khá chậm chạp. năm 1900, một thập kỷ sau khi các hệ thống điện
đã trở thành một chọn lựa thực tế cho các nhà sản xuất, điện chỉ chiếm
ít hơn 5 phần trăm tổng năng lượng sử dụng trong các nhà máy. nhưng
những tiến bộ công nghệ của các nhà cung cấp như general Electric và
Westinghouse đã làm cho các hệ thống điện ngày càng rẻ hơn và đáng tin
cậy hơn, và những chương trình tiếp thị tích cực cũng thúc đẩy sự chấp
45
nhà phát minh và viên thư ký